.

Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012

12 đặc điểm của sức mạnh tư duy (phần 1)




ImageTrong quá khứ, chúng ta có thể sáng chế ra thứ gì đó và vui vẻ với lợi ích của nó đem lại cho tới mãi cuối đời. Thời gian đã thay đổi. Ngày nay chúng ta cần tiếp tục đổi mới và giữ vững sự lãnh đạo – điều đó có nghĩa là chúng ta cần có các kỹ năng tư duy mạnh để có thể tiếp tục sản sinh ra những ý tưởng chiến thắng mới. Nhưng đâu là sự khác biệt giữa các kỹ năng tư duy thông thường và kỹ năng tư duy sức mạnh?

Do bản chất tự nhiên của công việc, tôi có cơ hội duy nhất để gặp rất nhiều người: nhà tư duy bên ngoài, nhà sáng chế và các nhà đổi mới đến từ rất nhiều lĩnh vực khác nhau: công nghệ, kinh doanh, nghệ thuật. Dưới đây tôi sẽ tổng kết ở 12 khía cạnh khác biệt, dựa trên kinh nghiệm rút ra từ rất nhiều năm.
1. Tư duy đa hệ và Tư duy một điểm (tập trung)
Trong hầu hết các trường hợp, khi chúng ta cố gắng giải quyết một vấn đề, chúng ta thường tập trung vào những điểm rất hẹp nơi vấn đề xuất hiện. Kết quả là chúng ta tự giới hạn bản thân chỉ quan tâm tới những thành phần liên quan trực tiếp tới vấn đề. Tuy nhiên nhìn nhận vấn đề từ những góc nhìn liên quan tới phần còn lại của hệ thống nơi vấn đề xuất hiện giúp chúng ta nhận ra phạm vi cơ hội lớn hơn, hiểu biết sâu hơn về nguồn gốc của vấn đề, và nhận ra những chiến lược giải quyết một vấn đề rất khác biệt theo những mức độ khác nhau. Do vậy, chúng ta luôn luôn nên nhìn vấn đề như một thành phần của hệ thống lớn hơn và đồng thời cũng nhận biết giải pháp của chúng ta sẽ gây ra ảnh hưởng như thế nào tới tương lai của hệ thống và môi trường xung quanh. Khi chúng ta muốn cải tiến (một cách sáng tạo) một hệ thống – kỹ thuật, kinh doanh... -- chúng ta nên nhìn nhận về quá khứ để tìm thấy so với quá khứ, hệ thống đã trải qua những thay đổi nào và đâu là động lực của những sự thay đổi đó.
Nhìn nhận một vấn đề hoặc một hệ thống dưới một góc nhìn khác cũng giúp nhận ra những dạng giải pháp khác nhau và các chiến lược tiến hoá khác nhau. (“Sơ đồ tư duy đa hệ” là một trong những công cụ rất mạnh chủ chốt của TRIZ, còn được biết tới dưới tên gọi “Toán tử hệ thống,” hoặc “Màn hình chín hệ.”)
2. Tư duy trừu tượng với Tư duy cụ thể
Tư duy cụ thể bắt chúng ta phải đứng tại một mức độ chi tiết nằm bên trong phạm vi đã biết của các giải pháp và khái niệm và cố gắng thích nghi chúng với vấn đề của chúng ta. Kết quả là, chúng ta hoặc bị bế tắc hoặc sẽ đi tới những cải tiến nhỏ (dần dần). Tư duy trừu tượng (khái niệm hoá) đưa quá trình giải quyết vấn đề lên một tầm cao mới và phá vỡ tính ỳ tâm lý do những hình ảnh hoặc thông tin cụ thể, chi tiết tạo ra. Nó cũng giúp nhận ra sự tương tự (về giải pháp cho vấn đề) nằm ở những lĩnh vực rất khác biệt nhau.
Nếu nói từ “bức tường” và bạn sẽ hình dung ngay ra một ngôi nhà làm bằng đá hoặc gạch. Tuy nhiên, nếu bạn thay thế từ “bức tường” với từ “hàng rào” chúng ta sẽ mở rộng không gian ngữ nghĩa về những điều có thể. Nhưng từ “bức tường” có thể là một thác nước, một dòng khí, hoặc một khoá ánh sáng... Nếu bạn nói từ “công ty” chúng ta ngay lập tức liên tưởng tới một văn phòng với nhân viên và bàn ghế trong khi một công ty có thể là ảo, với những nhân viên làm việc tại nhà... Khái niệm “tổ chức” sẽ làm cho chúng ta trở nên trừu tượng hóa hơn.
Những khái niệm cụ thể luôn tạo ra ràng buộc cho cách tư duy sáng tạo bởi vì chúng gắn liền với những hình ảnh cụ thể và làm gia tăng tính ỳ tâm lý của chúng ta. Tư duy trừu tượng trái lại giúp nhận ra sự liên kết giữa những sự vật không liên quan và các sự kiện và đi đến những ý tưởng và khái niệm rất khác biệt. Sự phát triển của tư duy trừu tượng sẽ làm gia tăng khả năng sáng tạo của chúng ta.
3. Tư duy đột phá với Tư duy thoả hiệp
TRIZ phát biểu sự xuất hiện của các mâu thuẫn là một động lực của sự phát triển của các hệ thống kỹ thuật, và cách giải quyết mâu thuẫn thông qua loại bỏ thoả hiệp giúp đạt tới những bước phát triển nhảy vọt của hệ thống. Ý tưởng giải quyết các mâu thuẫn để đạt tới giải pháp đột phá không phải do TRIZ đưa ra: điều này đã được các nhà tư tưởng vĩ đại  Immanuel Kant và Georg Hegel giới thiệu từ thế kỷ 17 và 18. TRIZ cố gắng đưa lý thuyết duy vật biện chứng áp dụng vào ngành khoa học. Ví dụ, tốc độ của xe ngựa sẽ bị giới hạn bởi chính tốc độ của con ngựa kéo, không kể bạn có nỗ lực thiết kế lại chiếc xe ngựa tốt tới đâu, hoặc bạn cho con ngựa ăn tốt thế nào, hoặc bạn sử dụng tới bao nhiêu con ngựa đi chăng nữa.
Để tìm ra một giải pháp đột phá – để đạt tới tốc độ cao hơn chẳng hạn, chúng ta cần thách thức cả những khái niệm hiện có và suy nghĩ về khả năng thay thế con ngựa với điều gì đó có khả năng làm cho chiếc xe đi nhanh hơn, ví dụ như một chiếc động cơ đi-ê-den (diesel) chẳng hạn.
Hiển nhiên đây là một hạn chế của rất nhiều dạng hệ thống do con người tạo ra. Ví dụ, trong quá trình phát triển, các ngành kinh doanh, xã hội và các hệ thống chính trị trải qua rất nhiều mâu thuẫn. Tuy nhiên khi chúng ta đối mặt với mâu thuẫn, bộ não của chúng ta có xu hướng tiếp cận mềm mại hoá các nhu cầu và tìm kiếm giải pháp thoả hiệp thay vì tập trung vào việc tìm kiếm các giải pháp đột phá cho phép loại bỏ hoàn toàn các mâu thuẫn và giúp chúng ta đi tới những sáng tạo huỷ diệt. Do các mâu thuẫn vần tồn tại (chưa được giải quyết) – và chúng trở nên ngày một sâu sắc hơn theo thời gian. Sự nhận biết sớm về các mâu thuẫn và giải quyết chúng là một trong những chức năng quan trọng nhất của “sức mạnh” tư duy.
(còn nữa)
<Theo Saga.vn>

0 nhận xét:

Đăng nhận xét